Thứ bảy, 18/05/2024

THƯ VIỆN ẢNH THƯ VIỆN ẢNH

Video Hoạt Động Video Hoạt Động

Số lượng truy cập Số lượng truy cập

Đang truy cập: 25,527
Tổng số trong ngày: 3,501
Tổng số trong tuần: 25,141
Tổng số trong tháng: 74,619
Tổng số trong năm: 803,006
Tổng số truy cập: 6,952,867

Ngành Tài chính tỉnh Bắc Giang trong thời kỳ khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và bước đầu phát triển kinh tế - xã hội (1954-1975)

|
Lượt xem:
Cỡ chữ: A- A A+
Đọc bài viết

I- Ngành tài chính tỉnh tham gia khôi phục và phát triển kinh tế- xã hội (1954-1957)

Chiến thắng Điện Biên Phủ và việc ký kết Hiệp định Giơnevơ đã đem lại hòa bình cho nhân dân ta, song do sự can thiệp của đế quốc Mỹ nên đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Miền Nam tạm thời bị chính quyền nguỵ thống trị dưới sự điều hành của Đế quốc Mỹ.
Trong điều kiện miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Đảng bộ và nhân dân Bắc Giang tập trung đi vào thực hiện công cuộc cải tạo xã hội, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Thời điểm này, tỉnh có nhiều khó khăn: tình hình xã hội còn chưa ổn định; Đời sống nhân dân còn khó khăn; tình hình sản xuất còn lạc hậu, kém phát triển.
Đứng trước tình hình đó, ngày 27 tháng 7 năm 1954, Tỉnh uỷ Bắc Giang đã mở hội nghị cán bộ để quán triệt hiệp định Giơ-ne-vơ và một số chủ trương của Đảng, đặt nhiệm vụ chủ yếu, trước mắt là tiếp quản các vùng giải phóng, xây dựng, củng cố chính quyền, đập tan các âm mưu thù địch của bọn phản động chống đối chính quyền ta; tiến hành giảm tô và cải cách ruộng dất, thực hiện khẩu hiệu Người cày có ruộng; giúp đỡ nhân dân hồi cư, ổn định cuộc sống; giải quyết nạn đói trong các vụ giáp hạt; động viên nhân dân phát huy truyền thống lao động, tiến hành khai hoang phục hoá để sản xuất, phát triển kinh tế nông nghiệp; củng cố đê điều đề phòng lũ lụt, mở rộng kinh tế công thương nghiệp, tài chính và ngân hàng, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng …
Tháng 8 năm 1954, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II đã tổ chức hội nghị lần thứ ba đề ra nhiệm vụ : Đẩy mạnh củng cố miền Bắc, tăng cường chỉ đạo công tác kinh tế tài chính, ra sức hoàn thành cải cách ruộng đất, củng cố quốc phòng, tăng cường công tác trị an, trong đó cải cách ruộng đất là trung tâm; khôi phục kinh tế là trọng yếu. Để thúc đẩy công cuộc khôi phục kinh tế, Đảng và Nhà nước chủ trương củng cố nền tài chính quốc gia, cụ thể hóa những nhiệm vụ tài chính phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội và yêu cầu khôi phục kinh tế như: tăng thu đúng chính sách, chế độ. Giảm chi hành chính đi đôi với chống lãng phí, tham ô. Đảm bảo cân bằng thu chi ngân sách đi đôi với việc cân bằng thu chi tiền mặt, bình ổn giá thị trường. Xây dựng chính sách, chế độ tài chính cho phù hợp. Thực hành chính sách thuế trong hoàn cảnh chuyển tiếp từ chiến tranh sang hòa bình. Thống nhất dùng tiền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Đứng trước tình hình kinh tế - xã hội trên, nhiệm vụ đặt ra cho ngành tài chính rất bức thiết để góp phần bình ổn và phát triển sự nghiệp kinh tế- xã hội.
 Ngành Tàì chính đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ mới mẻ, lớn lao đang đặt ra. Trước mắt, chấn chỉnh tổ chức bộ máy và đội ngũ Đội ngũ cán bộ làm công tác tài chính sau ngày giải phóng có 32 biên chế, trình độ nghiệp vụ chỉ tương đương trình độ sơ cấp. Chủ yếu lấy tinh thần làm việc để đánh giá chất lượng công tác. Anh em trong Ngành thường xuyên nhắc nhau phải lấy bộ não của người cộng sản, của người chiến sỹ cách mạng để đo, để đếm, để tính toán, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Do trình độ năng lực thấp, quê hương đã được hoà bình nên tư tưởng một bộ phận cán bộ muốn xả hơi, an nhàn, vì vậy hiệu qủa công tác không cao. Vì thế tháng 8 năm 1955 Ty Tài chính tổ chức kiểm điểm sự lãnh đạo của ngành trong một năm: Chỉ rõ những tồn tại yếu kém để khắc phục như: việc thu thuế nông nghiệp vụ hè năm 1955; việc thực hiện chủ trương cứu đói trong tháng 3 giáp hạt; việc trả thóc cho những gia đình mua công trái; việc thực hiện phân cấp quản lý tài chính,…
Năm1956 ngành Tài chính tiếp tục thực hiện chế độ phân cấp quản lý tài chính và cũng là năm thứ hai thực hiện kế hoạch khôi phục kinh tế, bước đầu phát triển văn hóa.
Thực hiện kế hoạch Tài chính do Chính phủ đề ra, năm 1956, ngành tài chính tỉnh đã thu đạt 103,6% kế hoạch, đảm bảo chỉ tiêu của địa phương; chi tài chính đã quản lý chặt chẽ hơn năm 1954. Trong năm 1956 ngân sách địa phương đã dành 47,8% để chi vào công cuộc kiến thiết, phục vụ sản xuất và phát triển văn hóa. đảm bảo các khoản chi tiêu hành chính thường xuyên 41% và các khoản chi cho các hoạt động bất thường.
Để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ thu ngân sách, năm 1956, Ngành Tài Chính đã phối hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp, các cơ quan thu có định mức tồn quỹ rõ ràng và đặt lịch thu cho các phòng thu, tránh để tiền đọng không vào quỹ; việc kiểm tra đôn đốc thu được thực hiện thường xuyên để duy trì việc thực hiện kế hoạch.
Nhiều loại thuế thu vượt mức kế hoạch như thuế nông nghiệp thu đạt 109%, thuế sát sinh và thuế sự nghiệp thu đạt 110%; thuế lâm sản thu đạt 100%.
Tuy nhiên công tác quản lý thu vẫn có một số hạn chế như: việc lập kế hoạch thu hàng tháng không sát; việc chống thất thu còn yếu, một số thuế thu không đạt kế hoạch như thuế buôn chuyến, thuế lợi tức doanh nghiệp, thuế kinh doanh nghệ thuật…; việc kiểm tra đôn đốc chưa cao, chưa nắm vững việc sản xuất, kinh doanh của các nhà kinh doanh công thương nghiệp; việc thu thuế nông nghiệp vụ hè năm 1956 còn chậm do việc chưa xây cất đủ kho chứa thóc. Việc thu hồi các khoản tạp thu và tài sản quốc gia rải rác chưa được chú ý đúng mức. Vấn đề phối hợp với mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã còn lỏng lẻo nên chưa quản lý được hàng hóa. Cán bộ thuế nhiều khi nặng về thu, nhẹ về lập trường chính sách …
Về phần chi, năm 1956 các cơ quan đều chấp hành các nguyên tắc, chế độ tài chính. Việc duyệt quyết toán hàng năm đều đúng hạn định. Trong công tác quản lý chi tiêu, nhiều kế toán đã kiên quyết giữ vững nguyên tắc để thủ trưởng tránh được sai lầm khi chi tiêu. Hầu hết các cơ quan đều đã mở tài khoản gửi tiền vào ngân hàng và có kế hoạch rút tiền hàng tháng, tăng cường chi tiêu bằng chuyển khoản để hạn chế việc đưa tiền mặt ra thị trường. Trong năm, ngành tài chính đã mở lớp tập huấn cho cán bộ kế toán các cơ quan về chế độ kế toán kép, mở sổ sách đầy đủ theo chế độ; nhờ vậy việc báo cáo số liệu hàng tháng được nhanh chóng, kịp thời, chính xác.Tuy nhiên, còn tồn tại như ; dự toán được duyệt chậm, việc chi hành chính lại tăng vì nhiều công tác đột xuất và số ngành mới phát triển như Ty nông nghiệp, Ban công tác nông thôn.,...
Công tác quản lý tài chính xã đã có những tiến bộ so với trước.
Ngành tài chính đã xác định nguồn thu chính của xã vẫn là thuế nông nghiệp. Năm 1956, thuế nông nghiệp thu đạt 109% kế hoạch được giao. Phần tài chính xã thu có 2 hình thức: thu bằng tiền và thu bằng thóc. Thu bằng tiền đến đâu thì chuyển vào ngân hàng tới đó. Phần thu bằng thóc thì sau khi thu cho nhập ngay vào kho lương thực của địa phương.
Năm 1956, là năm đầu Tài chính xã thực hiện kế hoạch năm và kế hoạch quý nên tình hình chi cũng phải theo kế hoạch. Để việc quản lý tài chính xã trong khâu chi được tốt, ngành tài chính đã phối hợp với ngân hàng để nắm vững tình hình, điều chỉnh việc chi của quỹ xã ở các khâu: Kiến thiết kinh tế; trả lương, chi cho giáo dục ở cấp I phổ thông và bình dân học vụ; chi y tế xã hội và chi hành chính.
Nhìn chung, trong năm 1956 tình hình thu chi ở qũi xã đã được quản lý đúng hướng, đảm bảo chính sách, chế độ. Tuy nhiên, việc đào tạo cán bộ tài chính xã chưa được quan tâm đúng mức nên vẫn còn một số hạn chế trong việc thực hiện kế hoạch được giao.
Bước sang năm 1957, năm tài chính tỉnh bước vào năm thứ 3 thực hiện kế hoạch khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa xã hội, kế hoạch nhà nước giao gắn với nhiệm vụ: "Căn bản hoàn thành khôi phục kinh tế ở miền Bắc- củng cố và phát triển chế độ kinh tế dân chủ nhân dân".
Nhiệm vụ của công tác tài chính lúc này là phải ra sức tăng thu đúng chính sách, hạn chế các khoản chi không cần thiết, kiên quyết chống lãng phí, tham ô, thực hành tiết kiệm. Đồng thời phải thăng bằng thu chi về ngân sách và tiền mặt. Quản lý chặt chẽ tiền tệ để tiến tới ổn định tiền tệ. Giảm bớt dần những khó khăn trong công tác tài chính, góp phần tạo điều kiện cho các ngành hoàn thành kế hoạch được giao.
Với cố gắng nỗ lực của ngành tài chính về mặt tổ chức, quản lý thu, chi nên các ngành trong tỉnh đã thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ được giao. Riêng về ngành tài chính thu ngân sách tỉnh đạt 111% kế hoạch. Trong đó: Thuế nông nghiệp năm 1957: vụ hè đạt 109% kế hoạch, vụ đông đạt 65%.
Thuế công thương nghiệp thu đảm bảo 100%. Trong đó có nhiều loại đạt và vượt mức như: Thuế hàng hóa, lợi tức doanh nghiệp; buôn chuyến, công doanh; tư doanh.
Bên cạnh công tác quản lý thu, chi ngân sách, công tác quản lý tiền mặt cũng được chú ý quan tâm, chấp hành nghiêm chỉnh chế độ quản lý do trung ương đề ra.Trong năm 1957 chi ngân sách của tỉnh đạt tỷ lệ 96,1%. Nhìn chung các khoản chi cho văn hóa xã hội và kiến thiết kinh tế đã thực hành đúng phương châm chống lãng phí và tiết kiệm được ở nhiều khâu. Trong tỷ lệ chi các loại, khoản chi về quản lý hành chính vẫn chiếm tỷ lệ khá cao trong ngân sách và chiếm 53%.
Trong hơn 3 năm 1954- 1957 được sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của Tỉnh uỷ, Uỷ ban hành chính tỉnh, sự phối hợp, giúp đỡ của các ngành, các cấp và sự nỗ lực phấn đấu của đội ngũ cán bộ, Ngành Tài chính tỉnh Bắc Giang đã thực hiện hoàn thành nhiệm vụ, góp phần tích cực ổn định tình hình chính trị, thúc đẩy sự nghiệp kinh tế- xã hội phát triển.
Tuy nhiên, thời kỳ này công tác giáo dục chính sách cho quần chúng nhất là nông dân nhận rõ nghĩa vụ đóng góp do Nhà nước vẫn còn hạn chế, dẫn đến tình trạng thất thu ngân sách. Công tác quản lý thị trường có lúc còn lỏng lẻo, thiếu kiên quyết. Công tác chống tham ô, lãng phí có đề ra nhưng chưa thành một phong trào rộng rãi trong cán bộ và nhân dân nên vẫn còn hiện tượng lãng phí của công trong một số cơ quan, đơn vị.
 
II- Ngành tài chính tỉnh Bắc Giang góp phần thực hiện công cuộc cải tạo Xã hội Chủ nghĩa phát triển kinh tế-xã hội (1958-1960).
Sau ba năm nỗ lực phấn đấu, các vết thương chiến tranh trong tỉnh căn bản đã được hàn gắn, tình hình kinh tế- xã hội dần được khôi phục và có bước phát triển. Tuy nhiện, nền kinh tế của tỉnh Bắc Giang và của cả miền Bắc lúc đó vẫn là kinh tế nông nghiệp lạc hậu gắn với kinh tế cá thể của người nông dân. Nhiều thành phần kinh tế như: thợ thủ công, tiểu thương, tiểu chủ, … các doanh nghiệp nhà nước lúc này chưa lớn mạnh để lôi cuốn các thành phần kinh tế khác.
Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước đã chỉ đạo phải xúc tiến công cuộc cải tạo XHCN, đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa để tiến hành xây dựng XHCN ở miền Bắc, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
Hội nghị lần thứ 14 tháng 11/1958 của BCH Trung ương đã đề ra nhiệm vụ cơ bản cho miền Bắc là : "phải đẩy mạnh cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm trước mắt là đẩy mạnh cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế quốc doanh. Đồng thời ra sức phát triển thành phần kinh tế quốc doanh là lực lượng lãnh đạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân" (1).
Đối với hoạt động tài chính, hội nghị 14 cũng chỉ rõ : "phải kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ kinh tế và tài chính, phát triển kinh tế để tăng cường tài chính và tăng cường kinh tế để phát triển kinh tế" (2).
Căn cứ vào đường lối chung, 4 nhiệm vụ được đặt ra cho ngành tài chính trong thời kỳ này là :
1- Nghiên cứu xây dựng các chính sách, chế độ, biện pháp tài chính thích hợp với tình hình mới để điều tiết quan hệ thu nhập thực tế của các tầng lớp cư dân, phục vụ nhiệm vụ cải tạo và phát triển.
2- Tích cực tăng thu, chú trọng tăng thu từ nội bộ kinh tế dựa trên cơ sở phát triển sản xuất, mở rộng lưu thông văn hóa.
3- Cải tiến quản lý chi: Phát huy hiệu lực lợi ích của nhân dân, triệt để tiết kiệm trong mọi chi phí về kiến thiết và hành chính, tiết kiệm tiêu dùng.
4- Xúc tiến việc phân cấp quản lý tài chính và sửa đổi những thể lệ không hợp lý về quản lý tài chính nhằm phát huy tính tích cực và sáng tạo. Đồng thời đề cao ý thức chấp hành kỷ luật tài chính của các ngành, các cấp.
Để thực hiện thắng lợi 4 nhiệm vụ của ngành. Ngành Tài chính tỉnh Bắc Giang đã tích cực triển khai thực hiện các nhiệm vụ, góp phần thực hiện công cuộc cải tạo Xã hội Chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế- xã hội trên địa bàn tỉnh đạt nhiều kết quả.
Năm 1958 là năm đầu của kế hoạch ba năm cải tạo XHCN và bước đầu phát triển kinh tế và văn hóa ở tỉnh ta, là năm kế tiếp giai đoạn khôi phục kinh tế (1954-1957), bước sang giai đoạn đưa cuộc cách mạng đi theo con đường XHCN góp phần đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà.
Ngành tài chính tỉnh được đề ra một số mục tiêu như sau :
- Ra sức chống thất thu và tăng thu đúng chính sách để đảm bảo tích luỹ vốn cho nhà nước.
- Đảm bảo kinh phí để thực hịên các chỉ tiêu kế hoạch nhà nước đã ghi trong dự toán của tỉnh, chủ yếu là các chi tiêu về kiến thiết kinh tế và văn hóa xã hội.
- Tăng cường quản lý chi tiêu để đảm bảo chế độ, nguyên tắc, chống lãng phí tham ô.
- Bước đầu thực hiện chính sách phân cấp quản lý tài chính ở cấp xã.
Trong bối cảnh chung, để thực hiện tốt bốn nhiệm vụ trên, Ngành Tài chính tỉnh Bắc Giang đã thấy rõ những thuận lợi, khó khăn của ngành và thực tiễn xã hội nên Ngành tài chính tỉnh đã chủ động, khắc phục khó khăn, khai thác và phát huy triệt để thuận lợi để phấn đấu phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đồng thời tạo điều kiện cho các, các cấp ngành hoạt động hoàn thành kế hoạch.
Năm 1958 Ngành tài chính tỉnh đã thu đạt 104 % kế hoạch, đảm bảo có tích luỹ vốn cho Nhà nước, đủ cung cấp cho các địa phương, đơn vị thực hiện các chỉ tiêu công tác; đồng thời hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch chi. Việc sử dụng phí dự bị và số thu để tăng thêm chi tiêu cho các ngành sự nghiệp; bảo đảm những việc chi đột xuất có hiệu quả tốt. Trong lĩnh vực giao thông, Ngành cũng tăng thêm kinh phí để nâng chất lượng đường ở thị xã và khu Nhã Nam. Chuẩn bị tốt vật liệu xây cầu Đức Mại. Công tác giáo dục cũng được tăng thêm kinh phí để xây phòng thí nghiệm ở Hiệp Hòa. Ngành y tế có thêm kinh phí đảm bảo vệ sinh cho các bệnh viện. Về hành chính đã đáp ứng chi đột xuất để xây dựng HTX nông nghiệp. Nhìn chung trong năm, Ngành Tài chính đã phân phối vốn nhà nước vào những công việc cần thiết phục vụ trọng tâm công tác của kế hoạch Nhà nước.
Trong việc quản lý chi, Ngành đã có những tiến bộ, luôn luôn nắm vững tài khoản của các đơn vị; nắm được kinh phí hàng tháng để đôn đốc thu nộp. Bên cạnh đó còn tăng cường kiểm tra tài chính để giúp các ngành thực hiện tốt các chế độ chính sách, đồng thời cũng giúp các ngành phát hiện được sự tham ô lãng phí.
 Về phía các ngành, các đơn vị cũng có nhiều chuyển biến tốt trong việc quản lý tài chính của đơn vị mình. Những hiện tượng chi trước mới lập dự toán sau; lấy việc này chi vào việc khác hoặc quyết toán sai đã giảm rất nhiều.
Đối với các ngành, các đơn vị tuy còn thiếu cán bộ nhưng đã từng bước khắc phục khó khăn để tăng cường và chuyên môn hóa cán bộ tài vụ, chấn chỉnh lề lối làm việc để quản lý chi tiêu được chặt chẽ hơn. Tiêu biểu là các đơn vị Nông Giang, Giao thông, Giáo dục, Y tế. Trong công tác, có nhiều đơn vị đã động viên được cán bộ công nhân viên nâng cao hiệu xuất, giảm công gián tiếp, hạ giá thành để tiết kiệm chi khi cần thiết. Có đơn vị đã kịp thời phát hiện tình hình phức tạp, đề xuất vấn đề giúp cho việc kiểm tra tài chính có kết qủa như ở huyện Lục Nam, Yên Dũng.
Trong năm, tình trạng kế toán lợi dụng vị thế gây khó khăn cho việc thu chi đã giảm hẳn. Chế độ cấp phát tài chính cho các đơn vị đúng tuần kỳ. Việc rút tiền mặt theo nhu cầu thực tế đã được đáp ứng nên đã hạn chế được nhiều việc chi tiêu sai nguyên tắc, ngăn ngừa được nhiều việc tạm ứng, tạm vay sai chế độ.
Sau ngày hòa bình lập lại, tài chính nhà nước đã chuyển từ một nền tài chính thời chiến sang nền tài chính hòa bình; từ một nền tài chính cung cấp sang một nền tài chính kiến thiết. Một chế độ tài chính mới đã được thiết lập thích hợp với hoàn cảnh mới. Đó là chế độ phân cấp tài chính dưới sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương.
Trong thời kỳ khôi phục kinh tế và trong thời kỳ xây dựng XHCN, nhu cầu chi phí về kiến thiết rất lớn, nhưng khả năng thu chi có hạn. Trình độ quản lý, kỹ thuật còn non kém, để đảm bảo nguồn thu, đảm bảo yêu cầu kiến thiết trọng điểm của Trung ương và nhu cầu kiến thiết của địa phương thì việc áp dụng chế độ phân cấp quản lý tài chính cấp xã là rất cần thiết và phù hợp.
Do những chính sách mới ban hành từ tháng 4 năm 1958 trong hoàn cảnh cán bộ xã chưa được củng cố; cán bộ tỉnh và huyện còn thiếu, vì thế Trung ương chỉ đặt yêu cầu "bước đầu thực hiện phân cấp chủ yếu ở các xã miền xuôi tạo điều kiện cho việc phân cấp tài chính xã trong năm 1959 được tốt".
Thực hiện chủ trương trên của Trung ương; mặc dầu còn gặp khó khăn về tổ chức và cán bộ; ngành tài chính đã tổ chức các xã học tập chính sách và hướng dẫn chuyên môn. Công tác này được tiến hành nhanh gọn với tinh thần tích cực. Các xã đã cử đủ số cán bộ đến học tập và lĩnh hội các nội dung cơ bản về chính sách phân cấp quản lý tài chính xã. Do vậy, trừ huyện Sơn Động do chủ trương lưu lại, còn các xã của các huyện đều đã được học tập, độc lập được dự toán thu chi. Nhiều xã đã khai thác được một số nguồn thu mới. Nhờ nguồn thu này mà một số xã đã thực hiện tốt một số công việc ở địa phương.
Trong kế hoạch 3 năm 1958 -1960, công tác quản lý dự toán ngân sách Nhà nước giữ một vị trí quan trọng. Trong đó công tác quản lý ngân sách Nhà nước năm 1959 có vị trí đặc biệt quan trọng. Đó là năm bản lề của kế hoạch 3 năm; nó có tác dụng thực hiện một bước chuyển hướng mạnh mẽ đẩy mạnh các công việc của nhà nước tiến lên nhanh hơn nữa trong công cuộc cải tạo và phát triển nền kinh tế quốc dân theo hướng đi lên CHXH.
Đứng trước tình hình đó, Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị 462.TTg ngày 12/10/1958 về việc lập dự toán ngân sách Nhà nước năm 1959.
Trong Chỉ thị của Thủ tướng nêu rõ phương châm dự toán; những vấn đề cho việc tính toán các khoản thu chi, những vấn đề cần chú ý trong việc lập dự toán địa phương, trình tự lập kỳ hạn gửi dự toán.
Về phương châm lập dự thảo dự toán năm 1959 nêu rõ: nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch nhà nước 1959 là ra sức đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và công nghiệp; coi việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp là việc quan trọng bậc nhất mà trọng tâm là đẩy mạnh sản xuất lương thực. Mở rộng hơn nữa kiến thiết cơ bản; củng cố và phát triển thành phần kinh tế quốc doanh; hết sức coi trọng việc phát triển đổi công và hợp tác xã và giúp đỡ đổi công, hợp tác xã. Đồng thời tiếp tục cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở phát triển sản xuất và nâng cao năng suất lao động sẽ tiếp tục nâng cao từng bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.
Dự toán nhà nước năm 1959 phải đảm bảo phục vụ hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch nhà nước vì vậy phải căn cứ vào nhiệm vụ ấy mà tích cực động viên đúng mức các nguồn thu, phân phối hợp lý các khoản chi, tập trung vốn vào những công tác chủ yếu ; thực hiện phương châm của Chính phủ đề ra là "Tiết kiệm" và "tiền ít mà làm được nhiều".
Xác định việc lập dự toán nhà nước và việc thực hiện dự toán Nhà nước là cần thiết và quan trọng, UBHC tỉnh đã chỉ đạo các ngành, các đơn vị, các địa phương phải tiến hành lập dự toán cụ thể của mình để có cơ sở thực hiện tốt kế hoạch Nhà nước đã đề ra. Trong hoàn cảnh đó, UBND tỉnh đã xác định tình hình và nhiệm vụ của Ngành Tài chính năm 1959 như sau :
Trên cơ sở sản xuất nông nghiệp, công nghiệp được phát triển, mở rộng giao lưu hàng hóa tăng cường thêm nguồn thu tài chính cho Nhà nước, nhằm thoả mãn yêu cầu phát triển kinh tế và văn hóa ngày càng tăng của nhân dân; tăng cường khả năng quốc phòng, đồng thời phục vụ đắc lực và kịp thời nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa.
 Mục tiêu phấn đấu trong thời gian trước mắt là :
- Trên cơ sở phát triển sản xuất, mở rộng giao lưu hàng hóa, ra sức tăng cường nguồn thu tài chính cho nhà nước. Đồng thời phải hết sức tiết kiệm chi, quản lý tốt việc thực hiện kế hoạch thu chi; bảo đảm thăng bằng thu chi, chấp hành các chính sách, chế độ và kỷ luật tài chính nhà nước.
- Làm cho chính sách và chế độ tài chính thể hiện được đầy đủ đường lối chính trị và phục vụ kịp thời nhiệm vụ cải tạo nông nghiệp, thủ công nghiệp, tiểu thương, công thương nghiệp tư doanh theo hướng xã hội chủ nghĩa, phục vụ công, nông liên minh, ủng hộ hợp tác xã.
- Nâng cao năng lực quản lý tài chính tiến kịp với sự phát triển của tình hình về mặt nhận thức, về mặt tổ chức, cũng như về mặt chính trị, nghiệp vụ chuyên môn.
Do vậy, phải phấn đấu để đảm bảo hoàn thành kế hoạch và thăng bằng thu chi.
- Nghiêm chỉnh chấp hành chính sách và chế độ tài chính nghiên cứu việc sửa đổi hoàn chỉnh bổ sung một số chính sách và chế độ tài chính.
- Kiện toàn tổ chức và mở rộng phân cấp quản lý.
- Giáo dục và bồi dưỡng cán bộ, tích luỹ kinh nghiệm quản lý tài chính.
Để giải quyết các vấn đề trên, ngoài việc trợ giúp của các nước, phải dựa vào sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân trong việc tăng nguồn thu tài chính cho nhà nước. Cần phải ra sức tiết kiệm, phát huy mọi khả năng của cán bộ và nhân dân.
Coi dự toán thu là sự tối thiểu phải đạt. Coi dự toán chi là tối đa thực hiện vượt mức kế hoạch nhà nước.  UBHC tỉnh đã đề ra yêu cầu cho ngành tài chính là:
Phải tính toán đối với các công trình chưa được tính toán, phải tính toán lại các công trình chưa tính toán kỹ. Trong việc chi tiêu các khoản dự toán nói chung, việc tính toán phải chặt chẽ; phải có kế hoạch. Vận dụng một cách sáng tạo và đầy đủ, đảm bảo khối lượng, chất lượng của công tác. Đồng thời giảm bớt kinh phí cho nhà nước. Bằng cách phát huy hiệu lực của tiền vốn, tiết kiệm chi, tiết kiệm nhân công, vật liệu. Dựa trên cơ sở tính toán lại, cải tiến quản lý chi mà thực hiện vượt mức tỷ lệ tiết kiệm từ 5% đến 10% đối với các khoản chi về kiến thiết cơ bản; từ 3% đến 5% các khoản chi về hành chính và sự nghiệp.
Đồng thời UBHC tỉnh cũng yêu cầu các ngành, các đơn vị lập dự toán; giao cho Uỷ ban kế hoạch, Ty Tài chính cùng với các đơn vị: Thuỷ lợi, Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Y tế.v.v… thảo luận trao đổi và phân định rõ kế hoạch kinh phí Nhà nước cho từng đơn vị. Các địa phương, đơn vị phải biết dựa vào dân để đảm bảo tiết kiệm đúng mức và thăng bằng thu chi. Sau khi kiểm tra lại toàn bộ dự toán, nhất là phần dự toán kiến thiết cơ bản, tỉnh đã rút bớt được một phần chi rất lớn; thay vào đó dựa vào sức dân để hoàn thành trong lĩnh vực lâm nghiệp, giao thông, y tế, thuỷ lợi.
Nói tóm lại việc thực hiện dự toán tài chính nhà nước nhìn chung đã đạt được nhiều kết qủa tốt. Công tác tài chính đã giữ được thăng bằng thu chi ngân sách địa phương; đã tập trung vốn để ưu tiên cho công tác trọng tâm.
Kết qủa thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1959 cơ bản đã thu được thắng lợi trên các mặt. Tổng giá trị sản lượng công, nông nghiệp của tỉnh năm 1959 tăng 11,5% so với 1958; công nghiệp tăng 6%, nông nghiệp tăng 11,8%, sức mua của cư dân tăng 12%. Khối lượng xây dựng cơ bản ở địa phương được đẩy mạnh, tăng 68,5% so với 1958. Sản lượng lúa năm 1959 tăng 12,4% so với 1958. Công nghiệp địa phương bước đầu được phát triển, một số cơ sở được tổ chức lại, được xây dựng mới như xưởng cơ khí nông cụ, xưởng cưa máy, xưởng bát, xưởng in, xưởng nước mắm, công trường gạch… Các mặt công tác văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao ngày càng phát triển, đời sống văn hóa của nhân dân trong tỉnh được nâng lên một bước.
 Bước vào thực hiện kế hoạch năm 1960, ngành tài chính và các cấp, các ngành, cùng nhân dân trong tỉnh, nhân dân lao động miền Bắc đang ra sức đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, đem hết nhiệt tình cách mạng để xây dựng miền Bắc tiến mạnh lên XHCN để chào mừng Đại hội Đảng các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III…làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Năm 1960 là năm có nhiều sự kiện chính trị trọng đại ảnh hưởng tới tình hình chung trong toàn Đảng, toàn dân; tác động mạnh tới các phong trào quần chúng, phong trào thi đua yêu nước như: Kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng; Nhà nước ban hành Hiến pháp mới; bầu cử Quốc hội; mừng Hồ Chủ tịch thọ 70 tuổi; Kỷ niệm 15 năm thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà; Đại hội Đảng lần thứ 3; cũng là năm chuẩn bị bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.
Tất cả tình hình trên đã có tác động mạnh đến hoạt động của Ngành Tài chính để đáp ứng mục tiêu hoàn thành thắng lợi kế hoạch 3 năm 1958-1960.
Để phục vụ tốt cho công cuộc phát triển kinh tế và văn hóa, cân bằng thu chi. Ngành Tài chính và đội ngũ cán bộ tài chính đã phối hợp với các ngành, các cấp trong công tác quản lý tài chính. Cố gắng tăng các nguồn thu, tăng số lượng thu, (để bù đắp cho sự giảm đi của thuế nông nghiệp vì chính sách có chiếu cố cho HTX nông nghiệp).Thu xí nghiệp, sự nghiệp ở mức phấn đấu tăng 60% so với năm 1959, thuế công thương nghiệp tăng 8,9%. Các xí nghiệp quốc doanh (thương nghiệp, công nghiệp địa phương) ngoài việc đẩy mạnh sản xuất phải chú ý tăng năng suất, hạ giá thành, hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch để tăng thêm tích luỹ cho nhà nước, chấp hành nghiêm kỷ luật tài chính: nộp lợi nhuận , thuế đúng mức, đúng thời gian.
Đối với các khoản thu khác trong nhân dân, Ngành Tài chính và các cấp chính quyền đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, nâng cao giác ngộ XHCN cho quần chúng, động viên tinh thần trách nhiệm, hăng hái đóng thuế cho Nhà nước; đồng thời tích cực chống thất thu.
Mặt khác, Ngành Tài chính tập trung lực lượng cho công tác quản lý tài chính; tăng cường giám đốc tài chính, chống lãng phí, tham ô, tiến hành tốt công tác kiểm kê tài sản, xác định vốn, thực hiện hạch toán kinh tế trong các xí nghiệp thương nghiệp, công nghiệp địa phương.
Thực hiện chủ trương của Nhà nước, Ngành Tài chính tỉnh tích cực thực hiện việc phân cấp quản lý tài chính cho huyện, xã; phát huy tính tích cực trong việc quản lý tài chính của các địa phương, đơn vị; đẩy tăng mạnh các nguồn thu, đảm bảo cân đối thu chi trong ngân sách Tỉnh.
Để công tác tài chính thu được kết quả tốt, phục vụ được sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, Ngành Tài chính tỉnh đã phối hợp với các cơ quan hữu quan tham mưu giúp Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh mở cuộc vận động thực hiện khẩu hiệu "Cần kiệm xây dựng nước nhà", động viên toàn dân tham gia xây dựng và quản lý tài chính Nhà nước, hăng hái tham gia lao động XHCN đóng góp thêm nhân lực, vật lực, tài lực vào sự nghiệp chung; tiết kiệm chi để dành vốn phát triển hợp tác xã, phát triển kinh tế địa phương.
Thực hiện cuộc vận động tiết kiệm, tỉnh đã huy động được vốn rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân; sử dụng vốn tiết kiệm, hợp lý cho việc phát triển kinh tế địa phương, đảm bảo tốt việc quản lý tiền mặt và cho vay để đẩy mạnh phát triển sản xuất, lưu thông hàng hóa và cải thiện đời sống nhân dân. Từ cuộc vận động tiết kiệm, Ngành Tài chính đã quản lý chặt chẽ hơn tiền mặt ở các cơ quan, xí nghiệp, công trường xây dựng cơ bản, các cửa hàng thương nghiệp và HTX mua bán, cải tiến công tác thanh toán; hết sức hạn chế mức tiền mặt tồn qũi của các đơn vị. Trong công tác quản lý tiền mặt, các ngành, các cấp đã nghiêm chỉnh chấp hành chế độ quản lý tiền mặt, cố gắng đảm bảo thăng bằng 3 mặt: sản xuất, hàng hóa, tín dụng. Các hoạt động tín dụng ngân hàng đã đẩy mạnh công tác cho vay địa bàn nông thôn để phát triển sản xuất. Ngoài tiền nhà nước cho vay, ngân hàng, tín dụng đã huy động được tiền nhàn rỗi của nhân dân, củng cố và phát huy tác dụng của hợp tác xã tín dụng trong việc cho vay và huy động vốn nhàn rỗi của nông dân, mặt khác đã thu được các khoản nợ đọng trong nhân dân để tăng thêm nguồn vốn cho vay.
Để hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao, ngành tài chính đã từng bước kiện toàn về tổ chức, tăng cường đội ngũ cán bộ cả về chất lượng và số lượng. Thực hiện Quyết định của Uỷ ban hành chính tỉnh, Ty Tài chính đã tiến hành tổ chức thành lập trường tài chính để đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ tài chính ở tỉnh, huyện và xã, để nâng cao chất lượng cán bộ, hiệu qủa công tác.
Nhìn chung sau ba năm thực hiện kế hoạch nhà nước 1958-1960, Ngành Tài chính tỉnh đã hoạt động tích cực và đã đạt được những kết qủa đáng kể, góp phần vào việc hoàn thành kế hoạch do Đảng và Nhà nước đề ra, tạo cơ sở để tiếp tục bước vào kế hoạch năm năm lần thứ nhất 1961-1965.
 
III. Ngành tài chính tỉnh Bắc Giang tham gia thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965).
 
Từ ngày 5 đến 10/9/1960 tại Thủ đô Hà Nội, Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng cộng sản Việt Nam) đã tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III. Đại hội xác định nhiệm vụ cách mạng của cả nước, nhiệm vụ cách mạng miền Nam, nhiệm vụ cách mạng miền Bắc; chỉ rõ vị trí, mối quan hệ hữu cơ giữa cách mạng miền nam và cách mạng miền Bắc. Đại hội đề ra kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) là hoàn thành bước đầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, hoàn thành công cuộc cải tạo XHCN, xác lập vững chắc quan hệ sản xuất XHCN; đồng thời hoàn thành tốt mọi nghĩa vụ với sự nghiệp cách mạng miền Nam. Đại hội chỉ rõ: nhiệm vụ cách mạng XHCN ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của cách mạng cả nước, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà.
Thực hiện sự chỉ đạo của BCH Trung ương Đảng, Đảng bộ tỉnh Bắc Giang tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ IV (vòng 2) từ ngày 20/2 đến ngày 2/3/1961. Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ năm 1961 và kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Đại hội xác định năm 1961 là năm rất quan trọng về kinh tế và chính trị, là năm mở đầu thời kỳ mới, lấy xây dựng CNXH làm trọng tâm, năm đầu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất trọng tâm. Về phương hướng và nhiệm vụ công tác tài chính, Đại hội chỉ rõ:
"Phải khai thác các nhân tố tích cực góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lưu thông hàng hóa, tăng cường tiết kiệm chống lãng phí, tham ô để đảm bảo tăng thu nhập tài chính nhà nước, nhằm thỏa mãn những khoản chi lớn của năm đầu kế hoạch 5 năm, nhằm phục vụ sản xuất phát triển, góp phần nâng cao thêm một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân trong tỉnh".
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV, Ngành Tài chính đã tập trung mọi công sức đảm bảo cân đối- chi, góp phần đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Để thực hiện tốt, chức năng, nhiệm vụ, theo sự chỉ đạo của Uỷ ban hành chính tỉnh, Ngành Tài chính đặt nhiệm vụ thực hiện chính sách Tài chính ở vị trí hàng đầu.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, nhiệm vụ của công tác thuế nông nghiệp là phải thực hiện lập sổ thuế. Các huyện miền xuôi và một số xã miền núi thuộc hai huyện Yên Thế và Lục Nam phải tính thuế theo diện tích đo đạc mới trên cơ sở xác định lại đúng, đảm bảo tăng thu cho ngân sách nhà nước, đúng chính sách, đúng thời gian quy định. Vì vậy, trong 2 năm 1961 và 1962 căn bản hoàn thành việc lập sổ thuế đầu năm, việc thu thế nông nghiệp và huy động các hợp tác xã đóng góp thêm nghĩa vụ lương thực với nhà nước đạt kết quả tốt.
Trong lĩnh vực thực hiện chính sách thuế công thương nghiệp, Ngành Tài chính đã tiến hành chế độ thu mới đối với kinh tế quốc doanh. Hướng dẫn và quản lý chặt chẽ, các xí nghiệp kinh tế quốc doanh, nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế và lợi nhuận. Chế độ thuế mới này bao gồm các thứ thuế như: Thuế doanh nghiệp, thuế hàng hóa… Chế độ thu mới này, gọi là thu doanh nghiệp. Các khoản thu được thực hiện tại xí nghiệp sản xuất, ngay sau khi bán hàng, không phụ thuộc vào giá thành, đảm bảo thu đủ cho ngân sách Nhà nước.
Cùng với việc thực hiện chế độ thu mới, việc thực hiện chính sách về chế độ thuế đối với kinh tế tập thể và cá thể cũng được tiến hành. Đó là việc thực hiện Chỉ thị số 103/TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành vào đầu tháng 10 năm 1962 về việc quy định chế độ trích nộp lợi nhuận và sử dụng lợi nhuận xí nghiệp.
 
Năm 1961 việc thực hiện kế hoạch thu đạt 102%, riêng phần thu ở địa phương đạt 100,9%. Trong đó thuế công thương nghiệp đạt 99,8%, (tăng 16,8% so với năm 1960), thuế nông nghiệp đạt 98,8%, do năm 1961 hạn hán nặng diện miễn giảm rộng. Ty tài chính đã tập trung cán bộ về tuyên truyền công tác miễn giảm, nên việc thu thuế diện tích còn lại đã đem lại kết qủa tốt, nhanh gọn.
Cùng với các lĩnh vực trên, việc quản lý thu của xí nghiệp công nghiệp, sự nghiệp địa phương có nhiều tiến bộ nên có nhiều xí nghiệp sản xuất kinh doanh có lãi, góp phần tích luỹ cho nhà nước.
Trong lĩnh vực chi tiêu, Ngành Tài chính tỉnh cũng tăng cường quản lý, đã tham mưu cho Uỷ ban hành chính tỉnh tiến hành thực hiện chủ trương phân phối và sử dụng vốn nhằm đáp ứng yêu cầu tăng cường và củng cố chế độ hạch toán kinh tế đối với công tác xây dựng cơ bản, sử dụng vốn lưu động; các khoản chi hành chính sự nghiệp; thực hiện điều lệ tổ chức kế toán nhà nước; điều lệ lập và chấp hành ngân sách.
Sang năm 1962, trên cơ sở chỉ tiêu về sản xuất và lưu thông hàng hóa, mức thu các loại được xác định với tinh thần tăng thu, chống thất thu. Khắc phục tình trạng tiêu cực (lậu thuế, bỏ sót nguồn thu, lãng phí…) phát huy các nhân tố tích cực (thi đua, tiết kiệm…), làm cho công tác thu có tác dụng phát triển sản xuất, tăng thu nhập quốc dân, phấn đấu tăng thu cho ngân sách địa phương.
Ngày 27 tháng 10 năm 1962, Quốc hội quyết định hợp nhất hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh thành tỉnh Hà Bắc. Theo đó, Ty Tài chính tỉnh Bắc Giang đã hợp nhất với Ty Tài chính tỉnh Bắc Ninh thành Ty Tài chính tỉnh Hà Bắc, đồng chí Lê Thái- nguyên Tỉnh uỷ viên Tỉnh uỷ Bắc Giang- là Tỉnh uỷ viên Tỉnh uỷ Hà Bắc làm Trưởng Ty, đồng chí Nguyễn Văn Khang, Trịnh Đình Thăng, Phạm Ngọc Bích làm Phó ty; đồng chí Nguyễn Văn Hiền- nguyên Phó Ty Tài chính tỉnh Bắc Giang được phân công làm Trưởng chi hàng kiến thiết tỉnh.
Tháng 10 năm 1963, Đảng bộ tỉnh Hà Bắc Đại hội đại biểu lần thứ nhất, đồng chí Lê Thái tiếp tục được bầu vào Tỉnh uỷ.
Việc hợp nhất 2 tỉnh, hợp nhất 2 Ty Tài chính và Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Bắc lần thứ nhất là những sự kiện chính trị nổi bật của địa phương trong năm 1963, thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động của Ngành Tài chính tỉnh, các địa phương, đơn vị trong tỉnh thi đua phấn đấu vươn lên hoàn thành tốt các chỉ tiêu kế hoạch kinh tế- xã hội của tỉnh. Trong năm công tác thu ngân sách đã có nhiều những biện pháp tích cực, được tiến hành tốt ở khu vực kinh tế quốc doanh. Việc thu thuế nông nghiệp năm 1963 đạt 87,2%, đã giải quyết xong phần diện tích thiếu hụt còn lại của 134 xã, đồng thời đưa hết sản lượng ruộng đất được tưới nước của các công trình thuỷ lợi để thu thuế.
Với phương hướng, nhiệm vụ năm 1964, Ngành tài chính đã huy động các khả năng để hoàn thành kế hoạch được giao. Do đó tổng số thu đạt 102%. Trong đó: thu quốc doanh và thuế công thương đạt 97,8%; thu lợi nhuận đạt 108,3% thu sự nghiệp đạt 101%; thu thuế công thương nghiệp, nông nghiệp… đạt 101,5%; các loại thu khác đạt 363%. Trong năm 1964 phần thu hàng hóa tăng gấp 2 lần so với năm 1960: chủ yếu là tăng thu về thuốc lá. Đây là loại cây được kế hoạch nhà nước khuyến khích trồng. Trong khâu thu về doanh nghiệp, tỷ trọng công doanh chiếm 64%, tư doanh chỉ chiếm 24%, qua đó đã thể hiện thành phần kinh tế quốc doanh và HTX ngày càng có ưu thế.
Bước vào năm 1965, mặc dù có khó khăn do tình hình đất nước có những chuyển biến lớn lao, song công tác tài chính vấn tiến triển tốt. Việc thu thuế hàng hoá, thuế công thương nghiệp, thuế nông nghiệp bước đầu đạt kết quả.
Có thể nói trong việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, công tác thu tài chính đã đáp ứng cho ngân sách Nhà nước luôn luôn ổn định; góp phần vào việc phát triển sản xuất, văn hóa- xã hội.
Trong việc chi, Ngành Tài chính tỉnh luôn luôn quan tâm đến các nhiệm vụ chi chủ yếu, trọng tâm theo kế hoạch của tỉnh. Quán triệt và thực hiện việc chi theo nguyên tắc duyệt dự toán. Ngành thường xuyên nhắc nhở các ngành, các cấp quán triệt việc thi hành chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý ngân sách, chú trọng việc kiểm soát chi tiêu của các đơn vị và thực hành tiết kiệm.
Nhìn lại công tác chi của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất cho thấy công tác chi đã bám sát nhiệm vụ do kế hoạch đề ra trong từng năm.
Năm 1961, tuy có nhiều khó khăn về tài chính, Ty Tài chính đã tham mưu cho tỉnh quan tâm chi các hoạt động trọng yếu là sự nghiệp kiến thiết kinh tế, bố trí đủ vốn cho các xí nghiệp, đơn vị hoạt động. Chi kiến thiết cơ bản cũng được quan tâm nhằm đảm bảo công trình năm 1960 chuyển sang và tiếp tục công tác kiến thiết cơ bản năm 1961. Trong công tác xây dựng cơ bản, khắc phục tình trạng thiếu nguyên vật liệu, nhân lực, vốn sử dụng phân tán…
Đồng thời, công tác chi ở giai đoạn này đã được kiểm tra giám sát kinh phí. Trong đó vai trò của phòng tài chính huyện đã nâng cao trách nhiệm phân công quản lý nên đã hạn chế được lãng phí, tham ô.
Bước sang năm thứ 2 của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Ngành Tài chính đã tham mưu cho Uỷ ban hành chính tỉnh phân phối nguồn vốn đầu tư cho các ngành công nghiệp, nông nghiệp, thuỷ lợi, giao thông, kiến thiết thị chính.
Sang năm 1963, phần chi tập trung vào các khâu vốn lưu động, kiến thiết cơ bản, chi sự nghiệp phát triển kiến thiết kinh tế và sự nghiệp văn xã.
Đối với vốn lưu động, đã tăng so với năm 1962 để đẩy nhanh qúa trình phát triển sản xuất và chuyển vào ngân hàng để thường xuyên cho các xí nghiệp vay luân chuyển vốn kinh doanh.
Việc sử dụng vốn kiến thiết cơ bản cũng đã tập trung nhiều vào sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, sản xuất và phi sản xuất. Trong công tác này việc quản lý, phân phối cung cấp nguyên vật liệu kịp thời, cấp phát vốn đúng quy định nhà nước.Trong kiến thiết cơ bản đã có thiết kế, tính toán, tránh gây khó khăn cho việc quản lý và theo dõi kinh phí và vốn ngân sách.
Trong năm 1963 đã cấp kinh phí thoả đáng cho việc phát triển thuỷ lợi, nạo vét kênh mương, mở rộng các trạm, trại chăn nuôi, trồng trọt.
Nhìn chung, công tác tài chính năm 1963 tuy có khó khăn nhưng đã thực hiện được thăng bằng thu chi và đã có kết dư, đáp ứng được yêu cầu chi tiêu rất lớn của tỉnh. Mặt khác đã đưa công tác quản lý tài chính bước đầu đi vào chế độ, kỷ luật, phát huy chức năng giám đốc tài chính đối với hoạt động của các ngành, các cấp, các xí nghiệp, thắt chặt mối quan hệ giữa tài chính tập trung của nhà nước với tài vụ của các ngành, các xí nghiệp.
Năm 1964, Đế quốc Mỹ và bè lũ tai sai tăng cường các hoạt động phát hoại miền Bắc làm cho ngân sách phải chi nhiều các khoản đột xuất ngoài kế hoạch. Mặt khác trong tỉnh các công tác thuộc lĩnh vực khai hoang, khoa học kỹ thuật, văn hóa, giáo dục, kiến thiết xây dựng, quản lý tổ chức dân chính… đặt ra nhiều yêu cầu chi tiêu và công tác quản lý chi tiêu rất nặng nề.
Chính vì vậy, Ngành Tài chính tỉnh quán triệt và tập trung thực hiện các nhiệm vụ chính trị và kinh tế:
- Tập trung lực lượng đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, công nghiệp; phát huy cao độ tinh thần tự lực cánh sinh- cần kiệm xây dựng đất nước; đẩy mạnh một bước việc xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của CNXH.
- Củng cố quan hệ sản xuất XHCN, tiến lên hoàn thành nhiệm vụ cải tạo XHCN, cải tiến quản lý kinh tế tài chính và cải tiến kỹ thuật, cải tiến quản lý xí nghiệp và HTX nông nghiệp.
- Tăng cường cải tiến việc phân phối lưu thông, cố gắng đẩy mạnh xuất khẩu để đảm bảo nhập khẩu; tăng cường tích lũy hơn nữa và đảm bảo tiêu dùng tiết kiệm; cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.
Từ những yêu cầu và nhiệm vụ đó, Ngành Tài chính đã có biện pháp, những chủ trương công tác hợp với từng thời kỳ, từng nhiệm vụ. Ngành đã thực hiện tốt việc chọn trọng điểm, chỉ ra phương hướng và tập trung cơ động cán bộ để thực hiện nhiệm vụ. Trong việc quản lý chi, Ngành đã tăng cường mối liên hệ thường xuyên với các ngành, các cấp, làm cho các ngành, các cấp thấy rõ khả năng ngân sách để nhất trí những phương án chi. Bên cạnh đó còn có biện pháp làm cho đội ngũ cán bộ kế toán, tài vụ trong các ngành gắn bó với tài chính thành một hệ thống thống nhất nên đã đạt kết qủa tốt giúp cho ngành tài chính bước vào năm thứ 5 của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đầy phấn khởi.
Sang năm 1965 yêu cầu chi của năm rất lớn vì đây là năm phấn đấu hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965). Do vậy BCH Đảng bộ tỉnh đã ra nghị quyết về công tác tài chính, trong đó có nêu về vấn đề chi tài chính là :
Tài chính phải tập trung vốn cho các nhu cầu trọng điểm trước nhất là cho việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật. Các nhiệm vụ chính trị của Đảng và nhà nước tích cực giúp đỡ nông nghiệp và các HTX, bảo đảm phát triển văn hóa xã hội một cách hợp lý. Đảm bảo các nhu cầu khác theo nguyên tắc triệt để tiết kiệm.
Do có phương hướng chỉ đạo đúng đắn nên công tác chi tài chính năm 1965 đã đạt kết quả tốt. Đáp ứng việc thực hiện nhiệm vụ tài chính đề ra, tập trung vốn cho sản xuất trực tiếp; đúng chính sách, đúng chế độ. Đẩy mạnh được phong trào thi đua "Mỗi người làm việc bằng hai", đẩy mạnh cuộc vận động 3 xây, 3 chống trong các xí nghiệp, cơ quan.
Về mặt chỉ đạo tăng cường quản lý ngân sách, Ngành Tài chính tỉnh đã phấn đấu đảm bảo số thu ghi trong ngân sách là mức thu tối thiểu; số cấp phát ghi trong ngân sách là mức chi tối đa; mức cấp phát đảm bảo kịp thời và chặt chẽ; thực hiện nghiêm túc chế độ cấp phát hạn mức; nắm vững số liệu thu - chi hàng tháng, qúi, năm. Đã tăng cường biện pháp bám sát cơ sở, các đơn vị (chia theo khối) để nắm vững tình hình và uốn nắm các sai sót; thường xuyên đối chiếu kết quả thu, chi, đồng thời đưa công tác kế toán vào nề nếp, kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng vốn và chủ động đề xuất các khoản chi cần thiết cho kinh tế quốc dân.
Trong công tác ngân sách xã, do nguồn thu mỗi ngày một lớn, yêu cầu chi ngày một tăng để phục vụ công tác cải tạo và xây dựng XHCN ở nông thôn, Ngành Tài chính tỉnh chỉ đạo tăng cường khâu quản lý, khai thác hết các nguồn thu ở xã; giám đốc chặt chẽ việc chi tiêu, ưu tiên chi cho sự nghiệp phát triển kinh tế và văn hóa. Phải đưa việc quản lý ngân sách vào nề nếp đúng chế độ, từ khâu lập kế hoạch ngân sách, duyệt ngân sách và thực hiện báo cáo hội đồng nhân dân xã. Trong vấn đề chi - thu ngân sách xã, hướng chi chủ yếu là sử dụng tiền vốn vào kiến thiết cơ bản. Vì thế các địa phương đã bắt đầu thấy rõ vị trí, vai trò, tác dụng của tài chính cơ sở và ngân sách xã. Do đó phong trào xây dựng tài chính xã nhằm phát huy tác dụng và tăng ngân sách xã đã có những chuyển biến tích cực, nhiều xã đã làm tốt công tác tài chính.
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, xã giữ một vị trí then chốt và là đơn vị trực tiếp thực hiện kế hoạch. Do vậy phải xây dựng một ngân sách xã có đủ khả năng quản lý tài chính. Trên tinh thần đó, Ngành Tài chính đặt ra cho tài chính xã ba nhiệm vụ là :
- Thu thuế, thu nợ cho nhà nước, bảo vệ tài sản công cộng;
- Quản lý ngân sách xã và hướng dẫn giúp kiểm tra giám đốc các qũi dân lập ngoài ngân sách.
 - Giúp đỡ và kiểm tra tài chính các HTX nông nghiệp, thủ công nghiệp, mua bán, tín dụng.
Để thực hiện ba nhiệm vụ trên, Ngành đề ra phương hướng kiện toàn ngân sách xã là dựa trên nhu cầu chi của xã; dựa trên các nguồn thu ở địa phương. Đồng thời để quản lý tốt ngân sách xã, phải xây dựng chế độ dự toán, quyết toán; chế độ kế toán ngân sách thống kê… thống nhất. Phải xây dựng chế độ quản lý tiền mặt, chế độ quản lý tài sản công, quản lý quĩ ngoài ngân sách. Trong công tác này, Ngành cũng qui định nội dung hoạt động của tổ chức bộ máy tài chính xã và các lề lối làm việc để đạt hiệu qủa công tác cao.
Tóm lại, nhìn chung sau 5 năm thực hiện kế hoạch lần thứ nhất (1961 -1965), đứng trước tình hình chính trị của đất nước có nhiều chuyển biến, cuối năm 1964, đầu năm 1965, đế quốc Mỹ trắng trợn mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược trên toàn bộ lãnh thổ nước ta.  Dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Chính phủ, Ngành Tài chính tỉnh đã nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, góp phần cùng cả nước hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961- 1965).
IV. Bộ máy và đội ngũ cán bộ Ngành Tài chính tỉnh lớn mạnh, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chống Mỹ, cứu nước( 1965- 1975).
Trước nguy cơ chiến lược “ Chiến tranh đặc biệt” bị thất bại hoàn toàn, từ cuối năm 1964 đế quốc Mỹ đã thực hiện nhiều âm mưu, kế hoạch mới hết sức thâm độc và hiếu chiến đối với Việt Nam, trắng trợn mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược cả miền Bắc.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ IX- tháng 3 năm 1965 chỉ rõ: Với những âm mưu và hành động mới của đế quốc Mỹ, tình hình một nửa nước có chiến tranh, một nửa nước có hoà bình đã biến thành cả nước có chiến tranh… nhiệm vụ của miền Bắc là vừa xây dựng vừa trực tiếp chiến đấu và chi viện cho tiền tuyến miền Nam và Hội nghị quyết định chuyển hướng mọi mặt sang thời chiến. Phát biểu tại kỳ họp thứ II, Quốc hội khoá III tháng 4 năm 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: Lúc này chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước.
Thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tỉnh uỷ, Uỷ ban hành chính tỉnh nhanh chóng và nghiêm túc tổ chức thực hiện chuyển hướng mọi mặt từ thời bình sang thời chiến với phương châm: tự tin, tự lực, trong bất kỳ tình huống nào cũng “ Vững tay cày, chắc tay súng”, “ Vững tay búa, chắc tay súng”, xây dựng quê hương vững mạnh và làm tròn nghĩa vụ với sự nghiệp cách mạng của cả nước.
Trong chặng đường từ 1965 đến 1975 đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn do chiến tranh gây ra. Nhưng chúng ta có thuận lợi căn bản là nhân dân Việt Nam tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng dốc hết sức người, sức của để chiến đấu chiến thắng kẻ thù là Đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai ở hậu phương và tiền tuyến. Mặt khác, chúng ta được sự giúp đỡ to lớn của các nước và bạn bè quốc tế, đặc biệt là sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước XHCN nên đã tạo ra cho cách mạng Việt Nam vững bước đi lên.
Bằng thắng lợi oanh liệt trên cả chiến trường miền Nam, miền Bắc và trên mặt trận ngoại giao, tháng 01 năm 1973, đế quốc Mỹ đã buộc phải ký Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Và bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trong mùa xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, miền Nam đã hoàn toàn được giải phóng, giang sơn Việt Nam được thu về một mối.
Trong bối cảnh và tình hình chung của đất nước như vậy, Ngành Tài chính đã nỗ lực phát huy truyền thống tốt đẹp, thực hiện tốt các chức năng, nhiệm về quản lý tài chính, đã có những đóng góp tích cực góp phần làm nên chiến thắng oai hùng của cả dân tộc.
1. Bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ Ngành Tài chính tỉnh được xây dựng vững mạnh.
Trước yêu cầu của tình hình chung, thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Uỷ ban hành chính tỉnh, năm 1965 Ngành Tài chính tỉnh đã căn bản hoàn thành công tác chuyển hướng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ và phương thức hoạt động từ thời bình sang thời chiến, thực hiện tốt nhiệm vụ tài chính thời kỳ mới: Vừa tiếp tục góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chống Mỹ, cứu nước thành công.
Tổ chức bộ máy Ngành Tài chính của tỉnh từ năm 1966 đến năm 1975:
1- Ban lãnh đạo Ty: gồm Trưởng Ty và Phó ty.
2- Các phòng trực thuộc Ty.
2.1- Phòng tổng dự toán: Phòng có nhiệm vụ tham mưu giúp lãnh đạo Ty hướng dẫn và xây dựng kế hoạch kinh tế. Hướng dẫn các phòng thuộc Ty lập kế hoạch, có nhiệm vụ hướng dẫn và quan hệ với các ngành để tham gia xây dựng kế hoạch.
2.2- Phòng tài vụ và thu quốc doanh: Có nhiệm vụ lập kế hoạch đúng mức trong thu quốc doanh và thuế. Căn cứ vào chỉ tiêu kế hoạch của tỉnh, đánh giá khả năng thực hiện và kết qủa thực hiện để lập kế hoạch thu giúp công Ty chủ quản lập kế hoạch.
2.3- Phòng thuế nông nghiệp và ngân sách xã :
Có trách nhiệm lập kế hoạch sát tình hình sản xuất, hạn, úng và tình hình chiến tranh. Trong khâu lập kế hoạch phải chú ý tới tình hình miễn giảm do thiên tai; đi sâu phát hiện những nơi có thể khai thác về diện tích, sản lượng và sản phẩm đặc biệt.
Trong khâu ngân sách xã, phòng tham mưu giúp lãnh đạo Ty có hướng cho xã khai thác các nguồn thu còn đọng lại như thuế sát sinh và khai thác các nguồn thu mới. Về chi chú trọng khâu kiến thiết kinh tế, làm cho ngân sách xã được cân đối.
2.4- Phòng nông lâm thuỷ lợi:  Có nhiệm vụ hướng dẫn lập kế hoạch tương tự như phòng tài vụ công thương nghiệp, tức là phải có dự kiến trước; có căn cứ số liệu lịch sử; đi sâu vào một số chỉ tiêu chủ yếu như giá thành, phí, giá trị tổng sản lượng; cần xem xét quyết toán năm trước làm cơ sở cho việc lập kế hoạch.
2.5- Phòng hành chính văn xã: Có nhiệm vụ lập kế hoạch chung về kinh phí hành chính- văn xã toàn tỉnh. Phòng trực tiếp làm việc với các lãnh đạo các địa phương, đơn vị để thống nhất xem xét số liệu năm trước, qui luật phát triển của sự nghiệp, loại trừ chi tiêu đột xuất và khả năng thu của ngân sách, nắm vững số liệu cơ bản, xây dựng được tiêu chuẩn chế độ phù hợp cho các huyện để có cơ sở xét duyệt.
Ngoài ra Ty Tài chính còn có Trường Tài chính là đơn vị trực thuộc, có nhiệm vụ đào tạo bồi dưỡng cán bộ cho ngành để bổ sung cho các hoạt động tài chính của tỉnh.
Do phân cấp quản lý nên ở huyện có Phòng tài chính trực thuộc UBHC huyện về các mặt; đồng thời chịu sự chi phối về mặt nghiệp vụ của Ty tài chính.
Phòng tài chính huyện có chức năng quản lý tài chính và giám đốc tài chính đối với ngân sách của huyện. Cơ cấu của phòng có trưởng, phó phòng và các cán bộ nghiệp vụ theo dõi các mặt công tác của đời sống kinh tế- văn hóa xã hội của huyện. Phòng có trách nhiệm quản lý và hướng dẫn các phòng ban tài vụ - kế toán của các đơn vị, xí nghiệp, HTX hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ của tài chính trong địa hạt huyện.
Dưới phòng tài chính của huyện là ban tài chính của xã (nhiều xã không có ban mà chỉ có kế toán). Do việc phân cấp quản lý tài chính nên xã cũng có ngân sách xã. Tài chính xã có nhiệm vụ giúp UBND xã thực hiện các chính sách về tài chính ở xã để đảm bảo sự hoạt động của xã.
Để giúp cho ngành tài chính thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, Ngành Tài chính tham mưu cho Uỷ ban hành chính tỉnh yêu cầu các xí nghiệp, các tổ chức kinh doanh cần nghiên cứu xác định lại hình thức tổ chức bộ máy quản lý cho thích hợp; kiên quyết giảm bớt phòng ban và những bộ phận không cần thiết làm cho bộ máy được gọn nhẹ, có hiệu lực đối với việc chỉ đạo sản xuất; tiến hành nghiên cứu hợp nhất những cơ sở có hình thức, quy mô, tính chất hoạt động giống nhau để giảm bớt bộ máy gián tiếp, phát huy tốt nhất khả năng lao động của công nhân; đồng thời sử dụng được tới mức cao hơn công suất thiết bị hiện có, giảm bớt vốn đầu tư không cần thiết. Đồng thời bố trí, sắp xếp trong từng đơn vị, từng cơ quan, xí nghiệp, HTX … có một bộ phận tài vụ- kế toán theo dõi kế hoạch thu chi tài chính của đơn vị mình nhằm làm cho việc quản lý tài chính của ngân sách nhà nước được chặt chẽ, đảm bảo có hiệu qủa cao.
Mặc dù còn rất thiếu cán bộ, song do yêu cầu cấp bách của trận tuyến trực tiếp đánh giặc, từ năm 1965 đến năm 1975, một số cán bộ của Ngành Tài chính tỉnh đã tình nguyện ra chiến trường đánh giặc. Ngoài mặt trận, các đồng chí đã chiến đấu dũng cảm, có đồng chí lập công xuất sắc và hy sinh anh dũng, như đồng chí Trần Đức Chính, Vũ Đình Báu. Ngoài các đồng chí lên đường trực tiếp đánh giặc, các đồng chí từ Trưởng Ty đến toàn thể đội ngũ cán bộ Ngành Tài chính tỉnh, đã thực hiện tốt công tác chuyên môn duy trì thường xuyên và tham gia hoạt động các phong trào cách mạng. Từ việc tổ chức lực lượng dân quân tự vệ đến phong trào “ Ba sẵn sàng trong thanh niên”, “ Ba đảm đang” trong phụ nữ… đều rất sôi động, tất cả cùng chung ý chí “ Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Mặc dù chiến tranh ác liệt, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Tài chính, của Tỉnh uỷ, Uỷ ban hành chính tỉnh, đặc biệt là sự nỗ lực phấn đấu vươn lên của đội ngũ cán bộ toàn Ngành, bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ Ngành Tài chính tỉnh đã trưởng thành vững vàng, thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ do Nhà nước và nhân dân giao, góp phần quan trọng đảm bảo cho sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa và công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
2. Ngành Tài chính tỉnh góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chống Mỹ, cứu nước.
Đi vào thời kỳ cách mạng mới, Ngành Tài chính tỉnh quán triệt sâu sắc phương hướng, nhiệm vụ của mình là phải đi sát các cơ sở sản xuất, các ngành kinh doanh, các cơ quan sự nghiệp góp sức phấn đấu tăng năng xuất, hạ giá thành, chống lãng phí vật tư và lao động nhằm tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nước”; phải đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ; đề cao ý thức trách nhiệm của ngành các cấp, các đơn vị tích cực dựa vào lực lượng to lớn của nhân dân; có kế hoạch cụ thể trong mỗi công tác, triệt để tiết kiệm về mọi mặt và thực hiện kiểm tra thường xuyên để ngăn chặn kịp thời lãng phí, tham ô, tạo điều kiện thăng bằng ngân sách góp phần ổn định tiền tệ, giá cả, đời sống nhân dân.
Với sự cố gắng của Ngành Tài chính và các địa phương, đơn vị, năm 1966, nền kinh tế của tỉnh có bước phát triển tốt. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt 50.233 ngàn đồng; số tích luỹ của ngành công nghiệp là 4.547 ngàn đồng. Tỷ lệ tích luỹ đạt 9,04% trong tổng giá trị sản lượng có ý nghĩa rất lớn trong đời sống kinh tế của tỉnh lúc đó.
Trong khâu thuế công thương nghiệp, ngành tập trung thi hành chính sách thuế mới và chống thất thu.
Để phát triển công nghiệp địa phương phục vụ nông nghiệp ngoài đầu tư vốn thiết bị còn tập trung vốn cho công nghiệp khu vực I, xưởng trùng tu ô tô, trạm bơm, mở rộng cơ khí; đầu tư vốn để thiết kế thí nghiệm và sản xuất các loại máy nghiền thức ăn cho gia súc loại 300 kg/giờ; máy xay sát gạo, ngô loại 300 kg/giờ; máy tuốt lúa cải tiến... Ngoài ra ngân sách còn để đào tạo, bồi dưỡng và huấn luyện cán bộ, công nhân kỹ thuật cho ngành công nghiệp. Đã mở 12 lớp đào tạo 1.131 cán bộ và công nhân kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu công nhân sửa chữa cho các đơn vị,  xí nghiệp, công sở.
   Trong việc cấp phát vốn cho các xí nghiệp công nghiệp, giám đốc quá trình phân phối vốn, sử dụng vốn, các việc cấp phát cho vay, thanh toán quyết toán việc sử dụng vốn tín dụng ... Ngành đã chỉ đạo các phòng taì chính, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và quản lý chặt chẽ.
   Đối với công tác tài vụ xí nghiệp; Ngành yêu cầu phải khẩn trương xét duyệt quyết toán, phải tìm ra những nguyên nhân giảm tích luỹ ngân sách; đôn đốc việc nộp ngân sách và phải có nhận xét việc sử dụng vốn, lỗ lãi. Đồng thời phân tích hoạt động kinh tế, giúp các xí nghiệp có phương hướng sản xuất và quản lý tài vụ tốt hơn.
Công tác thu quốc doanh và tập thể, cá thể đã được Ngành cải tiến một bước. Công tác chuyên quản xí nghiệp, đưa nội dung giao ban giữa Ty Tài chính và phòng tài chính huyện vào nề nếp. Thường xuyên bồi dưỡng, rút kinh nghiệm để nâng cao công tác quản lý và đi vào hoạt động kinh tế của các xí nghiệp, các đội sản xuất hoặc cửa hàng kinh doanh. Tìm ra các nguyên nhân lỗ lãi cụ thể từng mặt, giúp đỡ trong các khâu lưu thông phân phối bảo quản hàng hoá. Đôn đốc thu nộp lợi nhuận, khấu hao đều đặn đúng chế độ, cuối năm không để khê đọng.
Ngành đã tham mưu cho UBHC tỉnh chỉ đạo các ngành, các xí nghiệp, các tổ chức kinh doanh phải tiến hành sắp xếp lại lực lượng lao động, điều chỉnh lao động từ nơi thừa sang nơi thiếu; giao thêm nhiệm vụ sản xuất và kinh doanh để tận dụng sức lao động hạn chế tuyển thêm người mới đảm bảo năng suất lao động và hiệu quả sản xuất cao; yêu cầu các ngành, các xí nghiệp, các đơn vị kinh doanh phải thường xuyên báo cáo tỉnh rõ về số lao động có mặt, số ngày làm trong tháng và số người làm trong ngày, lương bình quân của mỗi công nhân; giá trị sản phẩm làm ra và mức tích luỹ mà mỗi người đem lại cho xã hội.
Việc quản lý vật tư tài sản cũng được Ngành tham mưu giúp Uỷ ban hành chính tỉnh chỉ đạo thực hiện có kết quả. Đối với các xí nghiệp có hàng gia công cho các HTX tiêu thụ phải kiểm tra xác định các tiêu chuẩn định mức tiêu dùng vật tư cho thật sát. Việc ký hợp đồng phải chặt chẽ và thanh toán theo từng hợp đồng. Không để tình trạng kéo dài, ngăn ngừa các hành vi lãng phí, tham ô.
Các xí nghiệp phải tổ chức sử dụng tốt công suất của máy móc, thiết bị; nắm vững tình hình khâu tiếp nhận bảo quản, sử dụng, chống để mất mát, hư hỏng, kém phẩm chất.
Việc chuyển dịch tài sản từ xí nghiệp này sang xí nghiệp khác phải theo chế độ tài chính của nhà máy. Bảo đảm việc chuyển dịch tài sản vật tư gắn liền với việc lưu thông vốn. Không để vật tư thoát ly sự quản lý của cơ quan tài chính nhà nước, gây khó khăn trong công tác quản lý và công tác kiểm tra giám đốc của tài chính.
Để bảo đảm cho việc phát triển công nghiệp, ngày 25 tháng 9 năm 1969, Bộ Tài chính ra văn bản số 171- CT/VP chỉ đạo Ngành Tài chính các tỉnh lập ngân sách địa phương. Trong văn bản này, Bộ Tài chính chỉ rõ:
- Đối với ngành công nghiệp đã ổn định sản xuất, cần có kế hoạch phát huy năng lực sẵn có, đề ra chỉ tiêu sản xuất tích cực nhất để tăng thêm sản lượng. Đồng thời phải chú ý các biện pháp cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất nhằm hạ mức chi phí vật tư trong mỗi đơn vị sản phẩm, nâng cao năng suất lao động để hạ giá thành, tăng tích luỹ.
- Đối với những cơ sở trước đây xây dựng kế hoạch ngân sách không sát với đặc điểm tình hình kinh tế địa phương, không đảm bảo được nguyên vật liệu hoặc kỹ thuật quá lạc hậu như một số xưởng xi măng xây dựng ở những nơi không có đá, không có điện, phải dựa vào nguyên liệu của Trung ương thì kiên quyết xếp lại để dành lao động, vật tư cho xí nghiệp khác.
- Đối với những xí nghiệp giá thành sản phẩm qúa cao do quản lý lao động kém thì đòi hỏi phải tổ chức lại lao động, hoặc cải tiến dây chuyền sản xuất để giảm giá thành, đảm bảo kinh doanh có lãi.
- Đối với xí nghiệp sản phẩm có khả năng tích luỹ cao như rượu, bánh kẹo… thì nhất thiết phải đòi hỏi mức tích luỹ sát đúng.
- Đối với tiểu công nghệ, thủ công nghệ và người buôn bán nhỏ cần giúp đỡ và đẩy mạnh sản xuất của các HTX tiểu thủ công nghệ và thủ công nghiệp, đi đôi với việc quản lý, bảo đảm động viên đúng mức sự đóng góp cho nhà nước.
Căn cứ vào sự chỉ đạo của Bộ Tài chính, Ngành Tài chính tỉnh đã giúp các ngành lập dự toán, kế hoạch, quản lý hoạt động sản xuất nên kết qủa đã có một bước phát triển, tăng nguồn thu cho ngân sách. Chỉ riêng thu xí nghiệp năm 1971 đã đạt 115,1% kế hoạch, vượt 25,8% so với năm 1970. Mặc dù trong năm xảy ra lũ lụt, sản xuất ở một số cơ sở gặp khó khăn song công tác quản lý đã được cải tiến; tình hình cung ứng vật tư kỹ thuật được đảm bảo; quan hệ sản xuất và tiêu dùng được cải thiện, không có sản phẩm mới bị ứ đọng. Nhiều xí nghiệp đã coi trọng và thực hiện tích cực công tác cải tiến quản lý, triển khai phong trào lao động sản xuất, xây dựng và khôi phục việc thực hiện các định mức tiêu hao vật tư kỹ thuật nên sản xuất kinh doanh đã đạt kết qủa tốt.
Ở Xí nghiệp Cơ khí, số công nhân giảm đi một nửa nhưng sản xuất lại tăng lên gấp đôi, đạt 209% kế hoạch về giá trị tổng sản lượng. Ở các xí nghiệp: Ép dầu Việt Yên, Barium, Xí nghiệp Bát Sông Thương, Xí nghiệp ô tô vận tải, sản xuất đều có hiệu qủa tốt.
Từ các phong trào thi đua của các xí nghiệp, các đơn vị sản xuất cho thấy các năm 1973, 1974, 1975 tình hình sản xuất đã có nhiều chuyển biến đáp ứng được nhu cầu các lĩnh vực của đời sống xã hội và thể hiện rõ vai trò của Ngành Tài chính đối với công cuộc công nghiệp hóa XHCN của tỉnh là rất cần thiết và quan trọng.
Trong nông nghiệp được chú trọng, tốc độ tăng trưởng khá, thời kỳ 1971 -1973 (hàng năm tăng bình quân là 15,5%) mặc dù năm 1971 bị úng lụt nghiêm trọng, năm 1972 là đỉnh cao nhất của cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ. Đây là một cố gắng rất lớn của Đảng bộ và nhân dân ta trong điều kiện một nền nông nghiệp tập thể hóa vẫn còn nghèo nàn, lạc hậu, lại vừa phải chống chiến tranh phá hoại một cách rất ác liệt mà vẫn giữ vững và phát triển sản xuất với tốc độ khá; vừa cung cấp đủ sức người, sức của cho tiền tuyến, làm tròn nghĩa vụ của một tỉnh hậu phương trong hậu phương lớn miền bắc XHCN đối với tiền tuyến lớn miền Nam.
Có được kết qủa đó, ngoài sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, sự nỗ lực của các ngành, các cấp, của nhân dân còn có sự đóng góp to lớn của Ngành Tài chính tỉnh.
Về chỉ đạo thực hiện kế hoạch, Ngành coi đây là nhiệm vụ quan trọng của việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, viêc chỉ đạo thực hiện kế hoạch được thực hiện ngay từ khâu kiểm tra, xét duyệt lập kế hoạch của các cơ sở, ban, ngành, đoàn thể. Ngành Tài chính tỉnh đã tham mưu, giúp cho Uỷ ban hành chính tỉnh điều tiết được ngân sách địa phương, đã góp phần tích cực làm cho đời sống nhân dân được ổn định, kinh tế-xã hội phát triển, công tác an ninh quốc phòng được đảm bảo.
 Về công tác giám đốc Tài chính, Ngành xác định công tác này nhằm hướng cho các đơn vị sử dụng đồng tiền đúng mục đích, đảm bảo đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; nâng cao trách nhiệm quản lý của các đơn vị, phát hiện kịp thời những diễn biến kinh tế, sản xuất, kinh doanh có ảnh hưởng tới kế hoạch ngân sách; ngăn chặn và phát hiện những hiện tượng tham ô, lãng phí.
Trong những năm của giai đoạn này, Ngành chỉ đạo các phòng chú ý khâu giám đốc tài chính như mở lớp bồi dưỡng cho kế toán nâng cao trình độ nghiệp vụ. Nâng thêm về nhận thức tư tưởng, giúp cho đơn vị tự quản là chính, đồng thời hướng dẫn thực hiện một số chế độ kế toán mới; hướng dẫn việc ghi chép giúp cho đơn vị quản lý được tốt, phân tích được dễ dàng; đồng thời làm cơ sở cho việc giám đốc của tài chính. Do đó việc chi tiêu không bị sai sót; hạn chế được vi phạm chế độ.
Trong suốt thời kỳ vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chống Mỹ, cứu nước, Nhà nước và nhân dân ta được nhân dân yêu chuộng hoà bình toàn thế giới ủng hộ, giúp đỡ, đặc biệt là các nước xã hội chủ nghĩa, tiêu biểu nhất là Liên Xô và Trung Quốc. Thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Tài chính, của Tỉnh uỷ, Uỷ ban hành chính tỉnh, tất cả hàng hoá, vật chất do nước ngoài ủng hộ, giúp đỡ về đến tỉnh đều được Ngành Tài chính tiếp nhận, quản lý, phân phối kịp thời, đúng địa chỉ, phát huy hiệu quả cao.

Nói tóm lại: giai đoạn 1965- 1975 là giai đoạn cả nước tích cực xây dựng miền Bắc XHCN; quyết tâm giải phóng miền nam thống nhất đất nước; Ngành Tài chính tỉnh từ 1966-1975 đã thực hiện tốt chức năng, nhiemẹ vụ của mình đối với công tác phân phối và giám đốc tài chính đối với ngân sách nhà nước địa phương. Đẫ làm tốt kiện toàn tổ chức bộ máy; quan tâm tốt các mặt hoạt động tài chính trong toàn ngành; các ngành, các cấp theo sự phân cấp quản lý tài chính của Nhà nước để đảm bảo ngân sách nhà nước. Qua đó tạo nên các phong trào thi đua yêu nước trong toàn ngành và trong xã hội, góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp vừa xây dựng xã hội chủ nghĩa, vừa trực tiếp chiến đấu, phục vụ chiến đấu, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Văn bản mới Văn bản mới